MỘC BẢN CHÙA DÂU ĐƯỢC CÔNG NHẬN BẢO VẬT QUỐC GIA
Theo tin từ Tuổi trẻ, ngày 13-5, tại chùa Dâu, tỉnh Bắc Ninh diễn ra lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công nhận Bảo vật quốc gia đối với Mộc bản chùa Dâu và khai mạc Lễ hội chùa Dâu năm 2024.
Theo kế hoạch, Lễ hội chùa Dâu năm 2024 diễn ra từ ngày 13 đến 15-5 (tức các ngày 6-8-4 âm lịch) với các nghi thức tế lễ truyền thống tại chùa Dâu và các chùa trong hệ thống thờ Tứ pháp.
Cùng với phần lễ là các hoạt động phần hội như: Hát Quan họ trên thuyền; múa rối nước Đồng Ngư; trình diễn các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống ca trù, trống quân, hát chèo, hát văn...; giao lưu văn nghệ quần chúng, thi đấu thể thao và các trò chơi dân gian...
Chùa Dâu – ngôi chùa cổ nhất Việt Nam
Chùa Dâu, được xây dựng ở cổ thành Luy Lâu từ thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, là ngôi chùa cổ nhất và là nơi khởi nguồn của đạo Phật VN.
Chùa nằm phía nam cổ thành Luy Lâu, trên một khu đất rộng bên bờ sông Thiên Đức cũ (nay thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Xa xưa người dân ở đây thường sống bằng nghề trồng dâu, nuôi tằm và cấy lúa nước nên dân gian xưa gọi là vùng dâu hoặc Kẻ Dâu.
Ban đầu chùa có tên là Pháp Vân Tự. Theo sự tích dân gian, Man Nương vào tu tại chùa Linh Quang (thuộc huyện Tiên Sơn ngày nay) từ năm 12 tuổi. Một hôm Man Nương đang nằm ngủ, nhà sư Khâu Đà La người Tây Trúc (Ấn Độ) vô tình bước ngang qua người. Bà Man Nương có mang, sau 14 tháng thì sinh ra một cô con gái. Trước khi về Tây Trúc sư Khâu Đà La đã trao cho Man Nương một cây gậy tầm xích dặn là khi nào hạn hán mang ra cắm xuống đất sẽ cứu được mọi sinh linh và niệm chú gửi bé gái vào một hốc cây dâu bên bờ sông Thiên Đức.
Sau khi sư về Tây Trúc, hạn hán kéo dài ba năm. Man Nương liền dùng gậy tầm xích cắm xuống đất tạo ra mưa. Cây dâu bị đổ trôi về thành Luy Lâu và trôi vào bờ khi nghe tiếng bà Man Nương gọi. Man Nương cho xẻ tạc cây thành bốn tượng Phật gọi là tứ pháp, đặt phật hiệu là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tượng trưng cho mây, mưa, sấm, chớp.
Khi tạc đến khúc giữa, những người thợ gặp phải hòn đá bèn ném xuống sông. Ban đêm, lòng sông sáng rực lên. Thì ra đó là người con gái của Khâu Đà La gửi vào cây dâu đã hóa đá. Hòn đá nhảy vào thuyền bà Man Nương và được bà đưa lên thờ, gọi là đức Thạch Quang (đá tỏa sáng).
Man Nương sau được tôn là Phật mẫu, tu ở chùa Tổ (Mãn xá), còn tứ pháp được thờ ở bốn chùa khác nhau trong cùng một khu vực.
Pháp Vân Tự - Chùa Dâu là nơi tu hành đắc đạo của nhiều vị cao tăng nổi tiếng. Với ý nghĩa là một Trung tâm Phật giáo từ đầu Công nguyên, nơi đây đã đào tạo 500 vị tăng ni, dịch 15 bộ kinh Phật và xây dựng hàng chục bảo tháp uy nghiêm. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng đã đến đây trụ trì như Mâu Bát, Tì Ni Da Lưu Chi, Khang Tăng Hội, Pháp Hiền.
Chùa Dâu được coi là một ngôi chùa rất thiêng nên còn được gọi là chùa Diên Ứng (diên là câu, ứng là hiệu, tức cầu gì được nấy). Các đời vua của các triều đại xa xưa đã từng về chùa Dâu để rước tượng Pháp Vân về chùa Báo Thiên (Hà Nội) để cầu đảo (cầu mưa cầu gió). Vua Lý Thánh Tông cũng đã về chùa cầu tự, khi đi thuyền trên sông đã gặp nguyên phi Ỷ Lan.
Chùa Dâu ngày nay là kiến trúc tu sửa từ thế kỷ 17-18, thời Hậu Lê. Chùa chính được bố cục theo kiểu "nội công ngoại quốc", nằm trong khuôn viên hình chữ nhật 30x70 m, bao gồm tiền đường, tháp Hòa Phong, tả trường lang, hữu trường lang, đại bái đường, Phật điện, cung cấm, hậu đường, Thạch Quang am.
Trải qua bao thăng trầm của thời gian, chùa Dâu và hội Dâu vẫn luôn là điểm đến của Phật tử cả nước. Du khách đến với chùa Dâu như về với cội nguồn của đạo Phật nước Nam, để cầu khẩn một sự bình yên trong tâm hồn như cái tên bình dị, mộc mạc của ngôi chùa cổ trên đất Bắc Ninh.
Di tích quốc gia đặc biệt chùa Dâu
Lễ hội chùa Dâu là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân vùng Dâu.
Bởi đây không chỉ là nhu cầu tìm về Phật tổ và hòa mình trong hoạt động văn hóa cộng đồng dân gian sôi động, tiêu biểu mà còn mang ý nghĩa quan trọng là cầu mong mọi điều tốt lành, cầu cho mưa thuận gió hòa - một ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp.
Chùa Dâu thuộc tổng Dâu xưa, nay thuộc phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh được biết đến là ngôi chùa cổ hình thành sớm nhất tại nước ta. Đây là một trong những công trình di tích lịch sử tín ngưỡng tôn giáo đánh dấu sự khởi nguồn của đạo Phật ở Việt Nam.
Vì vậy, ngôi chùa thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến hành hương chiêm bái, vãn cảnh, tìm hiểu về những giá trị lịch sử quý giá.
Hiện nay, Di tích quốc gia đặc biệt chùa Dâu được biết đến như danh lam bậc nhất xứ kinh Bắc, với giá trị nổi bật độc đáo về lịch sử kiến trúc nghệ thuật.
Chùa Dâu được xếp hạng di tích quốc gia hạng đặc biệt ngày 9-12-2013; bộ tượng Phật Tứ pháp vùng Dâu được công nhận là Bảo vật quốc gia ngày 25-12-2017. Chùa Dâu hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu, cổ vật quý giá, tiêu biểu như bia đá, khánh đá, chuông đồng...
Mộc bản chùa Dâu
Đặc biệt, Bảo vật quốc gia - Mộc bản chùa Dâu vừa được Thủ tưởng Chính phủ công nhận tháng 1-2024.
Bộ mộc bản gồm 107 ván khắc là hiện vật gốc duy nhất, độc bản, toàn vẹn và có tính xác thực với nhiều loại hình văn bản như: Truyền thuyết về Phật Tứ pháp, kể hạnh về Phật Tứ pháp, kinh Phật, các nghi lễ cầu mưa, cầu tạnh, cúng tế các vị Tổ chùa...
Giới nghiên cứu tạm phân loại thành 13 bộ khác nhau gồm: Cổ Châu hạnh, Cổ châu lục, Cổ Châu nghi, Âm chất giải âm, Nhân quả quốc ngữ, Kỳ vũ kinh, Kỳ vũ hồng ân công văn, Thỉnh Long Vương nghi, Công đức, Mục Liên, Tam giáo, Phù chú và Tồn nghi là những ván chưa xác định được tên gọi.
Mỗi ván khắc có tiết diện hình chữ nhật, hầu hết đều có kích thước trung bình dài từ 40 - 47cm, rộng từ 19 - 24cm, độ dày ván từ 1,5 - 2,5cm; có 92/107 ván được khắc 2 mặt và 15/107 ván khắc một mặt.
Một số ván khắc đan xen những đồ hình minh họa được bố cục chặt chẽ, hài hòa với phần văn tự.
Mộc bản chùa Dâu được san khắc vào thời Lê Trung Hưng và Tây Sơn kéo dài đến thời Nguyễn. Chữ trên mộc bản đều là chữ Hán cổ và chữ Nôm được khắc âm bản, đường nét mềm mại, có tính thẩm mỹ cao nên khi in ra giấy dó rất sắc nét.
Chất liệu ván in đều được làm bằng gỗ cây thị, trải qua thời gian gần 300 năm, nhưng ván khắc ở chùa Dâu còn khá nguyên vẹn, đủ số chữ, sắc nét, rõ ràng.
Từ xa xưa, chùa Dâu và hệ thống Phật Tứ pháp gắn liền với ước vọng mưa thuận gió hòa của cư dân nông nghiệp và là một trung tâm Phật giáo với sự giao thoa, dung hội giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng bản địa để tạo nên hệ thống Phật Tứ pháp đặc trưng riêng của Việt Nam.
Mộc bản chùa Dâu là Di sản văn hóa có giá trị to lớn giúp cho việc nghiên cứu về chùa Dâu, Tứ pháp trong lịch sử, đồng thời tìm hiểu về các vị sư Tổ chùa Dâu qua các thời kỳ. Hiện nay, 107 ván khắc gỗ ở chùa Dâu đang được bảo vệ, cất giữ cẩn trọng.
Tổng hợp
Góc gốm Bát Tràng khác
- Bàn thờ nên để 3 chén hay 5 chén nước?
- Thay bàn thờ mới phải thắp hương bao nhiêu ngày?
- Thay bàn thờ mới, bàn thờ cũ xử lý thế nào?
- Thay bàn thờ mới trong gia đình cần làm những gì?
- VÌ SAO ĐỨC PHẬT, BỒ TÁT NGỒI TRÊN HOA SEN?
- THẦN TÀI TRONG TÍN NGƯỠNG VĂN HOÁ DÂN GIAN CÁC NƯỚC
- Om mani padme hum là gì? Ý nghĩa câu thần chú trong đạo Phật
Góc gốm Bát Tràng
Hỗ trợ trực tuyến
-
Mr Tuyên
Thống kê truy cập
- Đang truy cập 5
- Trong ngày 1472
- Hôm qua 2081
- Truy cập nhiều nhất 4159
- Tổng truy cập 1429404